Friday, March 6, 2015

Hồi ký Dương Văn Ba: Những Ngã Rẽ – Chương 4: LÀM BÁO SÀI GÒN

Mời xem
Hồi ký Dương Văn Ba: Những Ngã Rẽ 


Phần 1: Nghiệp làm báo
Trong đời học sinh và sinh viên của tôi, có 3 lần tập tành nghề làm báo. Lần thứ nhất vào năm 1956, lúc mới 15 tuổi, tôi được thầy dạy Việt Văn là thầy Lâm Ngọc Bình chọn làm bỉnh bút của tờ đặc san Nhành Lúa Mới, tiếng nói của học sinh trường Công giáo Bạc Liêu. Cùng lo tờ báo đầu tay trong đời này có Phạm Văn Tập dân Cà Mau, sau này là nhà văn Hoài Điệp Tử, chuyên viết feuilleton cho một số báo như báo Tia Sáng, Trắng Đen.
Cách thức làm báo học trò như sau:
- Chúng tôi viết bài, đa số là tùy bút, thơ, truyện ngắn.
- Thầy Bình chọn, tôi và anh Tập lo biên tập, sắp xếp, trình bày. Báo dày 42 trang, khổ tập học trò, bìa in hai màu.
Tôi và anh Tập, đại diện cho nhà trường đem báo lên Cần Thơ mướn in. Nơi in báo của chúng tôi là một nhà in nhỏ của Tây Đô, nằm gần cầu Tham Tướng.
Tôi còn nhớ, bài báo đầu tay của tôi được in là một bài tùy bút về “chiếc áo bà ba đen”, nói lên cảm nghĩ về các cô gái lao động, bán buôn. Hồi đó nhà trường chỉ cho chúng tôi 1.800 đồng để in 300 số báo, kể cả tiền ăn xài, tiền xe lên xuống Cần Thơ hai lần để giao bài và nhận báo. Việc sắp chữ, sửa bản vỗ, cho chạy “bon” đều do chủ nhà in làm vì lúc đó chúng tôi không biết sửa morasse vả lại chỉ ở lại nhà in vài tiếng đồng hồ.
Tờ báo được Trưởng ty Thông tin Bạc Liêu lúc đó cho phép xuất bản là một điều hãnh diện cho trường Công giáo, cho thầy Bình và cá nhân tôi .
Nguyễn Văn Năm, Trưởng Ty Thông Tin lúc đó là một thanh niên đi kháng chiến ở Khu về Thành năm 1952, cùng thời với thầy Lâm Ngọc Bình. Điều này cho thấy ngay từ năm 1953-1954, hoạt động văn hoá, giáo dục của các tỉnh thành miền Nam đã có sự xâm nhập và âm thầm lan tỏa của những cán bộ Việt Minh từng theo kháng chiến. Như trường hợp trường trung học Long Đức của bà Bùi Thị Mè thành lập ở Trà Vinh năm 1955 (bà Bùi Thị Mè và chồng là ông Ngô Tấn Nhơn hoạt động Thành đến năm 1960 lại bỏ vào rừng).
Xâm nhập về văn hóa, văn nghệ, giáo dục là xâm nhập vào trái tim, cái đầu của học sinh, thử hỏi làm sao không có các phong trào đấu tranh thành thị về sau này?
Tôi nhớ lại phía những người cộng sản đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam ngay trước khi Hiệp định Genève được ký kết. Việc xâm nhập về văn hóa giáo dục được tiến hành ưu tiên. Năm 1953, 1954, các bài thơ kháng chiến yêu nước nổi danh của nhà thơ Tố Hữu dã đựơc truyền tụng và đem giảng dạy trong các trường trung học lớn ở Sài Gòn, ở các tỉnh, trường công cũng như trường tư. Học sinh trung học thời đó không mấy ai mà không biết bài thơ tràn đầy tình yêu nước, tràn đầy khí thế cách mạng tiến công, thắng lợi của Tố Hữu. Bài “Ta Đi Tới :”
Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái thong dong ta bước.
….Đường Bắc Sơn, Đinh Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng dài theo kháng chiến
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi…
Họ cũng thuộc lòng bài thơ ca ngợi anh bộ đội nổi tiếng của nhà thơ Chính Hữu….
.Em về cấy lúa trồng bông
Cho lúa mau nở cho bông được mùa
Trưa hè rụng lá bàng khô
Tôi đi ra trận….nghe hò bốn phương
Súng ơi súng ở với tôi mùa thu, theo tôi mùa hạ
Theo tôi diệt nốt quân thù
Tôi nhớ thương người bạn cũ
Miệng cười mắt nhắm ngàn thu…
Lần thứ nhì tôi viết báo vào năm 1959 lúc vừa đổ tú tài. Tôi lấy bút danh Dương Trần Thảo, Huỳnh Thành Tâm lấy bút danh Huỳnh Phan Anh. Hai anh em chúng tôi cộng tác với Tuần báo Mã Thượng do anh Trịnh Văn Thanh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Bài viết của tôi là bài “nhận thức thời gian trong thi ca Hàn Mặc Tử” đăng trên tuần báo Mã Thượng (khổ lớn). Bài thứ nhì là thư ngõ gởi nhóm Sáng Tạo do Huỳnh Phan Anh và tôi cùng ký tên.
Một xu hướng triết lý trong văn chương, một kiểu “ếch nằm đáy giếng” đâu thấy trời bao la. Vừa viết báo vừa đi dạy học ở quận Chợ Mới Long Xuyên (dạy trường bán công ở Chợ Mới của anh Trương Phước Đức – bạn thân của Huỳnh Thành Tâm). Huỳnh Phanh Anh dạy Pháp văn, tôi dạy Việt văn, Nguyễn Tấn Trọng dạy tóan, lý, hóa (Nguyễn Tấn Trọng hiện nay ở Mỹ. Trong chiến tranh, anh là Phi công lái F5, bị bắn rơi ở miền Đông, bị bắt làm tù binh và được trao trả năm 1973, ngay sau khi hiệp định Paris được ký kết).
Đời viết báo và đời dạy học thường gắn bó với nhau. Chúng tôi 3 thanh niên mới lớn đã biết tháo vát dùng chút ít học thức của mình để kiếm thêm tiền sinh sống. Hồi năm 1960, nhật báo rất hiếm chỉ có 4,5 tờ. Báo về văn học càng hiếm hơn. Trường trung học cũng ít. Mỗi tỉnh chỉ có một trường công lập và một, hai trường tư. Còn ở cấp huyện, lớn như huyện Chợ Mới, các nhà tư sản, trí thức hoạ hoằn mới lập ra một trung học tư thục. Giấy phép phải lên tới Sài Gòn xin. Lúc đó, đỗ được tú tài đôi đã có thể tự coi là trí thức. Ở mỗi tỉnh họa hoằn mới có vài chục tú tài. Cái chữ cái nghĩa thời đó sao mà quí giá thế. Không phải như thầy đồ Tú Xương ca cẩm “văn chương hạ giới rẻ như bèo” .
Đến lần thứ ba, tôi lại cùng với Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Ngọc Thạch (Tư Trời Biển trong báo Tin Sáng), Võ Văn Điểm viết báo ở đại học Đà Lạt. Tập san Chiều Hướng Mới, tên báo do Huỳnh Phan Anh đặt.
Sau năm 1963 Tổng thống Kennedy bị bắn chết, chiến tranh ở miền Nam Việt Nam bắt đầu sôi động. Tờ báo của chúng tôi có những suy tư trăn trở thoát ra khỏi tháp ngà văn chương. Con người phải dấn thân nhập cuộc. Không dấn thân bằng cách đi lính, thầy giáo sinh viên cũng phải dấn thân bằng những suy tư phản kháng. Báo Chiều Hướng Mới lúc đó đã nói lên những trăn trở của lớp trẻ về sự vô lý của chiến tranh.
Ba bước tập tành theo nghề báo hình như đó là giáo đầu tuồng của định mệnh.
Chính thức vào nghề viết lách
Đầu năm 1968, tôi chính thức bước vào nghề làm báo với các bài xã luận thường xuyên đăng trên báo Tin Sáng. Chưa chịu dừng ở đó, tôi xin giấy phép xuất bản Tuần báo Đại Dân Tộc. Tôi làm chủ báo nhưng không có quan hệ với dân buôn giấy, in báo, không biết cách bọc lót với giới phát hành, toàn là những “trùm sò” có ăn chịu với Hội cựu Chiến binh, với Trung ương Tình báo. Cho nên Tuần báo là của tôi, nhưng lại do Ngô Công Đức bỏ tiền ra in, phát hành, thu lợi nhuận.
Chủ nhiệm kiêm chủ bút Dương Văn Ba ăn lương một tháng 30 ngàn đồng (lúc đó bằng 3 lạng vàng). Tuần báo Đại Dân Tộc, nhật báo Tin Sáng, nhât báo Tiếng Nói Dân Tộc (do Lý Quí Chung làm chủ nhiệm) là ba diễn đàn đối lập công khai với chính phủ Thiệu – Kỳ.
Cùng tham gia viết báo trên tuần báo Đại Dân Tộc có Nguyễn Hữu Chung, Kiều Mộng Thu, Trần Ngọc Châu, Lý Chánh Trung…. Đại Dân Tộc đi vào chiều sâu của những vấn đề thời sự chính trị, là diễn đàn chống chiến tranh, đôi khi bị coi là thân cộng, phản diện với Tuần báo Con Ong của Minh Vồ, một tiếng nói hậu thuẫn của Nguyễn Cao Kỳ và các chính trị gia chống cộng gốc Miền Bắc. Tuần báo Con Ong coi cộng sản là kẻ thù không đội trời chung, còn tuần báo Đại Dân Tộc chủ trương hoà bình hoà giải dân tộc. Chúng tôi thẳng thắn và công khai chỉ trích Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Chúng tôi chủ trương người Mỹ, quân đội Mỹ không nên can thiệp trực tiếp vào Việt Nam.
Báo Đại Dân Tộc vừa có những bài bình luận chính trị nghiêm túc, vừa có những bài châm biếm khó quên. Nhà thơ Cung Văn mỗi tuần có một bài “móc lò” châm biếm chính trị vừa cay vừa chua đối với chính quyền và các nhân vật gia nô thời đó. Ông Đạo Ù Ù (bút danh của ông Hồ Hữu Tường), Hai Mã Tấu (bút danh của Nguyễn Ngọc Thạch) cũng có mặt trên Đại dân Tộc. Tuần báo của tôi cũng thường bị tịch thu và luôn luôn bị nhiều đoạn “TYĐB”.
Tự ý đục bỏ là biện pháp kiểm duyệt của chính quyền đối với báo chí. Báo chí cứ tự do viết, tự do nói, tự do xuất bản. Đồng thời Nha báo chí của Bộ Thông tin cũng tự do tha hồ đục bỏ, tha hồ tịch thu. Để tránh khỏi sự bao vây của kiểm duyệt và của cảnh sát, chúng tôi thường thuê in báo ở nhiều nơi khác nhau. Có nhà in ở Gia Định, có nhà in ở Quận 1, Quận 3, có nhà in ở Chợ Lớn.
Thường thì mỗi ngày cứ vào khoảng 2-3 giờ chiều Nha Báo chí mới kiểm duyệt xong các bản in thử. Họ gạch bỏ các hàng in nguy hiểm, xoá trắng những chỗ cấm đoán và thay thế bằng dòng chữ “TYĐB”.
Các nhà in ở đường Gia Long, nhà in ở đường Võ Tánh đương nhiên phải thi hành nghiêm túc lịnh TYĐB. Chúng tôi nộp lưu chiểu các ấn bản có TYĐB. Nhưng các ấn bản nguyên xi ở Gia Định, Gò Vấp, Chợ Lớn chúng tôi đã cho in từ sớm và in “nguyên con”.
Các chủ nhà in ở Quận 5 rất “chịu chơi” cho chạy máy toàn bộ các ấn bản không thông qua kiểm duyệt. Đội quân hàng mấy trăm người phát hành sẵn sàng xông vào các nơi in báo lậu để lãnh báo đi bán rộng khắp hang cùng ngõ hẻm.
Chúng tôi in báo được nguyên con nhờ các ông chủ nhà in gan dạ. Dĩ nhiên họ có thêm lợi nhuận, còn nhà báo thì liều mạng với chính quyền. Các em bán báo nhờ sự xé rào của chủ báo và chủ nhà in có được báo hấp dẫn để bán đắt như tôm tươi. Các chú cảnh sát, công an chìm làm ngơ cho báo in lậu, phát hành lậu cũng được thêm tiền lương súp do các tay đầu nậu phát hành báo đài thọ. Cả một hệ thống phân phối báo lậu, in lậu nhưng công khai tựa vào nhau mà giành lấy sự sống, và chiến đấu. Vô cùng sôi động và khó quên thời kỳ làm báo vưà công khai vừa chui vừa lậu.
Số phận tuần báo Đại Dân Tộc mặc dù in lậu nhiều số được “nguyên con”, nhưng vẫn không khác số phận của tờ Tiếng Gọi Miền Tây ở Mỹ Tho. Tổng Trưởng Thông tin Ngô Khắc Tỉnh ký án tử cho Đại Dân Tộc sau 9 tháng hoạt động. Có điều lạ là nhật báo Tin Sáng đấu tranh chống chính phủ Thiệu-Kỳ mãnh liệt, nhưng không hề hấn gì. Cùng thời đó, nhật báo Tiếng Nói Dân Tộc của ông Lý Quý Chung đối lập nhẹ nhàng hơn, phản ảnh tiếng nói vừa mức của thành phần thứ ba, đứng giữa cũng bị đóng cửa vĩnh viễn. Nhà báo Lý Quý Chung quá ngứa nghề, có lúc phải nhận làm chủ bút nhật báo Điện Tín trong 6-7 tháng .
Câu hỏi tại sao nhật báo Tin Sáng chỉ bị tịch thu nhiều lần mà không bị ông Nguyễn Văn Thiệu buộc đình bản, có nhiều người thắc mắc. Giải đáp tạm bợ của một số dư luận: Ngô Công Đức gốc công giáo, cha từng bị cộng sản giết, lại có bà con xa gần với Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, nên Nguyễn Văn Thiệu còn nể vì. Cũng có nhiều người không tin vào ý kiến đó, họ đặt nghi ngờ xa hơn, Ngô Công Đức từ lâu đã có quan hệ với nhiều người Mỹ. Tài sản của Đức có được khi còn làm ăn ở Hậu Nghĩa do thầu cung cấp nước đá cho lính Mỹ và do thầu các quán xông hơi massage phục vụ quân đội Mỹ. Tiếng nói của Đức có thể phản ảnh một nước bài chính trị: đối lập với chế độ Thiệu, theo chủ trương của người Mỹ. Trong cuộc chơi chính trị tư sản, có thân chánh, phải có đối lập. Nếu triệt hạ báo Tin Sáng có nghĩa là huỷ bỏ toàn bộ cuộc chơi. Bàn cờ dân chủ được sắp đặt như thế, không thể đổi khác.
Ở một xứ sở lệ thuộc vào Mỹ quá nhiều, điều gì người ta cũng có thể nghi ngờ. Người ta nghi Ngô Công Đức dính với Mỹ cũng như Ngô Công Đức đã từng dính sâu với Nguyễn Cao Kỳ, với Nguyễn Thiện Nhơn, cánh tay mặt của Kỳ trong mọi cuộc ăn chơi đàng điếm.
Đại Dân Tộc hàng tuần bị đóng cửa, tôi tiếp tục viết xã luận mỗi tuần cho Tin Sáng và Thời Đại Mới do anh hai Nguyễn Kiên Giang phụ trách chủ nhiệm kiêm chủ bút. Một bài xã luận được lãnh 10.000 đồng nhuận bút, một tháng tôi viết cho Tin Sáng 5-6 bài, nhưng đối với báo Thời Đại Mới, tờ báo nghèo của anh Hai Kiên Giang tôi không nhận bút phí. Tình cảm của anh chị Hai Kiên Giang đối với các đàn em trong làng báo Sài Gòn lúc đó rất dễ thương. Đối với tôi, một ngòi bút chính trị trẻ lúc bấy giờ anh Hai Kiên Giang là tấm gương sáng trong nghề làm báo miền Nam.
Báo Thời Đại Mới không có nhiều độc giả như Tin Sáng, nhưng đó là tờ báo của một ký giả nhà nghề. Qua bao đổi thay sóng gió, hoan hô, đả đảo, Thời Đại Mới của anh Hai Kiên Giang vẫn luôn có mặt, luôn tồn tại, góp phần vào sự nghiệp làm báo nhà nghề miền Nam.
Khi tôi viết những dòng này, có lẽ anh Hai Kiên Giang đã khuất, xin coi như nén nhang tưởng niệm một đàn anh nhà nghề bất khuất, luôn lạc quan, luôn có mặt để nói lên những gì cần nói và nói được những gì mà nhà cầm quyền không đục bỏ, vẫn cứ nói theo thể cách riêng để tồn tại vì tồn tại là trên hết để làm nhân chứng lịch sử.
Tự do báo chí?
Giai đoạn 1965-1975 báo chí Sài Gòn đầy màu sắc, khá phức tạp. Có thể tạm chia làm 5 loại:
- Báo chống cộng sản: Các tờ Chính Luận, Tự Do, Sóng Thần, Tiền Tuyến.
- Báo thương mại, làm báo để làm giàu, để kiếm sống, không lập trường chính trị rõ rệt: Báo Tia Sáng của ông Nguyễn Trung Thành, Sài Gòn Mới của bà Bút Trà.
- Báo nhà nghề, chuyên đào sâu các vấn đề thời sự, chuyên môn dưới cặp mắt báo chí không phản ảnh rõ rệt đứng bên này hay bên kia: Báo Thần Chung của Nam Đình, Đuốc Nhà Nam của Trần Tấn Quốc.
- Báo đối lập gồm có báo Tiếng Nói Dân Tộc, Tin Sáng, Điện Tín, Đại Dân Tộc
- Báo được CIA Mỹ tài trợ hoặc báo của trung ương tình báo Sài Gòn như báo Trắng Đen, Chính Luận.
Có tự do báo chí hay không dưới thời Nguyễn Văn Thiệu 1965-1975?
Không có và có.
Không có: vì hàng ngày báo nào cũng bị kiểm duyệt. Phóng viên, ký giả có thể bị bắt nếu suy ra viết bài hay tung tin có lợi cho phía cộng sản.
Các ký giả vừa viết báo vừa hoạt động cho cộng sản có thể bị bắt không cần một phán quyết nào của tòa án. Thường một số nhà báo từng tham gia kháng chiến chống Pháp tiếp tục hoạt động cho cách mạng hay các phóng viên cộng sản mới vào nghề, lộ diện dễ dàng bị bắt bởi công an chìm.
Chế độ cũ kiểm duyệt và kìm kẹp báo chí thường chỉ chú trọng tới nội dung chính trị, báo có làm lợi cho cộng sản hay không. Còn về mặt văn hoá văn nghệ, xã hội hầu như họ thả lỏng. Ở những lãnh vực này báo chí được tự do muốn viết gì thì viết. Từ đó, một tiểu thuyết kích dâm hạng nặng như tiểu thuyết Chín Củi được đăng tải trong báo Tia Sáng, một tiểu thuyết khác như tiểu thuyết Cậu Chó có nhiều pha nhơ nhớp, tục tĩu vẫn được đăng trên báo Trắng Đen, vẫn ùn ùn bán chạy.
Có tự do báo chí:
- Hiểu theo nghĩa ai muốn viết gì cứ tha hồ viết. Chẳng có một rào cản nào ngoại trừ rào cản cộng sản.
- Hiểu theo nghĩa chưa có ký giả nào bị bắt bỏ tù vì dám viết bài chống hoặc phỉ báng chế độ. Các mục tiếu lâm, móc lò trên các báo tha hồ xỏ xiên, bôi đen Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Ví dụ Thiệu được gọi là Anh Bảy Tê Tê, Kỳ được gọi là Tướng Đá Gà Râu Kẽm. Trên báo Tin Sáng, Tư Trời Biển tha hồ tung tin vịt nghe qua rồi bỏ, nhà thơ Cung Văn tha hồ ví von chính quyền theo sở thích.
- Hình phạt nặng nhất của chế độ cũ: đóng cửa báo.
- Cũng chưa có ai bán các tờ báo lậu mà bị bắt bỏ tù.
Chế độ cũ chỉ bưng bít sự thật trên báo chí được nửa vời. Các báo hàng ngày chống chế độ vẫn tới tay đọc giả thông qua hệ thống phát hành lậu. Biện pháp nửa vời đã là ngòi nổ giựt sập uy tín chế độ cũ trong tâm lý quần chúng. Chế độ cũ có giăng lưới bao vây tự do báo chí chỉ giăng lưới một nửa. Còn một nửa kia, độc giả vẫn thấy được sự thật 100%. Báo chí của chế độ cũ đã góp phần liên tục “đánh mìn chế độ” trong dư luận.
Thời kỳ làm báo Điện Tín
Tuần báo Đại Dân Tộc cáo chung. Đến năm 1971, do yêu cầu của kỹ sư Võ Long Triều, tôi ký giấy đồng ý nhượng tên Đại Dân Tộc để anh Triều đứng tên xin phép xuất bản tờ nhật báo cũng lấy tên Đại Dân Tộc.
Vào khoảng cuối năm 1971, Đại Dân Tộc tái xuất giang hồ với tư cách báo hàng ngày. Ba nhân vật chính điều hành báo này là anh Võ Long Triều (lúc đó đã là dân biểu Quốc hội ) dân biểu Kiều Mộng Thu, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận. Đại Dân Tộc trở nên sáng giá, là nhật báo đối lập hàng đầu.
Cuối năm 1971, sau khi thất cử, Ngô Công Đức đã bỏ trốn đi nước ngoài. Báo Tin Sáng tiếp tục xuất bản đến đầu tháng 4-1972 phải tự đình bản vì Bộ Thông tin không cho nộp lưu chiểu nữa dù không có lệnh đóng cửa.
Anh Hồ Ngọc Nhuận và tôi được anh Hồng Sơn Đông mời về làm chủ biên nhật báo Điện Tín kể từ tháng 11-971.
Đầu não của báo Điện Tín được sắp xếp như sau:
- Nghị sĩ Hồng Sơn Đông: Chủ nhiệm
- Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: Chủ bút.
- Dương Văn Ba (đã thất cử): Phó chủ bút kiêm Tổng thư ký Toà soạn
- Giáo Sư Lý Chánh Trung: Giám đốc chính trị
Nhật báo Điện Tín vào giai đoạn này ngấm ngầm trở thành tiếng nói chính thức của nhóm chủ trương hoà bình dân tộc, đứng đầu là Đại Tướng Dương Văn Minh.
Dương Văn Minh và Hồng Sơn Đông trong quân đội có quan hệ thầy trò. Hồng Sơn Đông đóng lon Đại tá (theo đạo Cao Đài) dưới quyền chỉ huy của Tướng Minh. Về chính trị Hồng Sơn Đông ủng hộ đường lối hòa bình của Tướng Minh. Vì lúc đó đang khá giàu có, Hồng Sơn Đông một phần nào đã chia xẻ gánh nặng tài chinh cho Tướng Minh. Trong Quốc hội, Hồng Sơn Đông đứng chung liên danh với luật sư Vũ Văn Mẫu, nhân vật được phật giáo Ấn Quang hậu thuẫn, chủ trương giải pháp hòa bình giữa các bên Việt Nam.
Khoảng thời gian đầu, khi nhận làm phó chủ bút báo Điện Tín, tôi vẫn tiếp tục nghề dạy học tại trường trung học Mạc Đĩnh Chi (sau khi thất cử dân biểu tỉnh Bạc Liêu tôi bị buộc trở về Bộ Giáo dục. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Ngô Khắc Tỉnh đã ký quyết định chuyển tôi về dạy học). Trường Mạc Đĩnh Chi lúc đó do anh Lý Di, người Trà Vinh làm hiệu trưởng. Tôi và anh Di là bạn, anh ấy phân cho tôi dạy môn Pháp văn, 16 giờ một tuần. Tôi tiếp tục nghề dạy học thêm 3 tháng, sau đó vì công việc nhà báo tràn ngập, tôi bỏ ngang nghề thầy giáo.
Lúc tôi điều hành tờ Điện Tín hàng ngày, báo này mới chỉ có 8 ngàn độc giả. Đó là vào khoảng tháng 12-1971.
Cùng làm việc với tôi hàng ngày ở toà soạn (địa chỉ số 101 đường Võ Tánh, quận 1 – ngày nay là đường Nguyễn Trãi) – có những người sau đây :
- Anh Trương Lộc – Thư ký toà soạn
- Anh Huỳnh Bá Thành tức hoạ sĩ Ớt – Trưởng ban trình bày – lúc đó chúng tôi gọi là Giám đốc kỹ thuật (sau ngày giải phóng Huỳnh Bá Thành mang lon Trung tá Công an – Tổng biên tập báo Công an TP.HCM), Nguyễn Văn Phúc – Kỹ thuật viên montage, trợ lý trình bày cho Huỳnh Bá Thành (sau giải phóng mới lộ ra Phúc là Trung úy công an).
- Anh Kiên Giang, anh Sơn Nam phụ trách trang văn hóa văn nghệ.
- Anh Nguyễn Vũ, anh Tường Hữu cung cấp các bản dịch tin nước ngoài và tin tổng hợp lấy từ các thông tấn xã AFP, UPI, AP, Reuter
- Anh Trần Trọng Thức bút danh Trần Văn Lê phụ trách mục ký sự nhân vật (lúc đó Trần Trọng Thức đã bị động viên đóng lon trung úy Hải quân)
- Anh Cung Văn tức Nguyễn Vạn Hồng – Phóng viên Việt Tấn Xã – phụ trách mục thơ châm biếm. Anh Nguyễn Ngọc Thạch thường xuyên viết mục Án Thua Đủ ký tên Hai Mã Tấu – trước đây Cung Văn cũng thường viết Tư Trời Biển trên báo Tin Sáng cùng với Nguyễn Ngọc Thạch.
- Đội ngũ phóng viên có nhiều người trẻ. Trong đó có Nguyễn Ninh, Điệp Liên Anh, có Quốc Trang (sau giải phóng mới lộ ra Quốc Trang hoạt động cộng sản, hiện nay giữ vai trò quan trọng trong việc quan hệ với người Hoa Chợ lớn)
- Phụ trách viết xã luận có nhiều người: Nguyễn Hữu Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Văn Tòng..( Dương Văn Ba lúc đó ký tên nhiều người như dân biểu Huỳnh Ngọc Diêu, dân biểu Huỳnh Trung Chánh, Nghị Sĩ Hồng Sơn Đông, dân biểu Trần Văn Thung, dân biểu Nguyễn Công Hoan… những người này không có thì giờ viết, khoán cho Dương Văn Ba viết và trả thêm phụ cấp vì ông Ba đã thất cử, không thể công khai ký tên).
- Viết feuilleton có Lý Quý Chung. “Nhựt ký của nàng Kiều Dung” là một truyện dài rất ăn khách mô tả lối sống ăn chơi của giai cấp thượng lưu trong xã hội Sài Gòn, cũng có những pha tình ái du dương lãng mạn, hấp dẫn. Tôi với tư cách phó chủ bút thường trực quyết định cho đăng feuilleton này. Nhiều người phản đối cho rằng tiểu thuyết đó có tính cách khiêu dâm. Tôi nhớ không lầm đó là phản ứng của Lý Chánh Trung và Hồ Ngọc Nhuận. Nhưng càng đăng, tiểu thuyết này càng có đông độc giả vì nó lột tả được một cách sống động nếp sống xa hoa đàng điếm của một giai cấp thượng tầng xã hội.
- Về phóng sự, nổi bật của báo Điện Tín vào thơi kỳ 1972-1973 có phóng sự “Nhật ký của G.I” do Hoàng Minh Phương thực hiện.
- Hoàng Minh Phương, gốc Huế, lúc đó khoảng 30 tuổi, đầu năm 1972 xuất hiện tại toà soạn, giao cho tôi một tập bản thảo và tự giới thiệu anh đang làm thông dịch viên cho Mỹ ở PleiKu, chán cảnh làm tay sai, bỏ về Sài Gòn với một ngòi bút có khả năng sinh ngữ. Sau khi đọc nhanh tập bản thảo, tôi thấy có sắc thái, nhạy bén, hấp dẫn, tôi nhận đăng đồng thời sử dụng Hoàng Minh Phương dịch một vài tài liệu tiếng Anh ngắn hàng ngày.
- Phóng sự của Hoàng Minh Phương khá thành công, mô tả cuộc sống thác loạn của các thanh niên “chích choác”, pha trộn nhiều cảnh làm tình tập thể hỗn tạp. Việc khai thác phóng sự này giúp độc giả ở các địa phương hiểu sâu thêm bộ mặt đen, ma quái của Sài Gòn cũ. Sau này khi giải phóng xong, hình như Hoàng Minh Phương được tuyển dụng làm phóng viên của báo Đảng “Sài Gòn Giải Phóng”. Hoàng Minh Phương ít nói, có cuộc sống thầm lặng đôi khi khó hiểu. Tôi đã mạnh dạn sử dụng anh, dựa vào ngòi bút có màu sắc của anh, bất kể đằng sau lưng anh là màu xanh hay đỏ. Đã hơn 28 năm nay, tôi chưa hề gặp lại Hoàng Minh Phương, dù cả anh và tôi đều biết là đang cùng sống ở Sài Gòn, riêng tôi từng đi tù cộng sản hơn 7 năm.
Toà soạn nhật báo Điện Tín thời kỳ 1971- 1972, không khí làm việc tích cực, sôi nổi quyết liệt. Bộ bốn Dương Văn Ba, Trương Lộc, Minh Đỗ, Huỳnh Bá Thành luôn luôn có mặt tại toà soạn từ 6 giờ 30 phút sáng, vùi đầu vào công việc cho đến 12 giờ trưa mới xong.
Nhiệm vụ của Trương Lộc và Minh Đỗ, hai thư ký toà soạn, là lựa tin lựa bài, Trương Lộc lo về tin Thông Tấn Xã,têlêtype, các bản tin của các hãng thông tấn nước ngoài Reuter, AFP, AP, UPI (do Tường Hữu và Nguyễn Vũ cung cấp). Anh Minh Đỗ chọn lựa các tin quốc nội và chuyên lo về trang 3 trang 4.
Tiện đây, tôi xin nói thêm mấy dòng về anh Minh Đỗ. Anh tên thật là Đặng Văn Nên, từng đi kháng chiến chống Pháp ở khu 8, cùng một thời kỳ với ông Lê Hồng Cẫm. Sau 1954, anh Minh Đỗ về thành, làm báo, nhờ nghề chuyên môn đánh Morse trong kháng chiến chống Pháp nên có thời gian anh được chọn làm ở Trung Tâm Kiểm Soát Không Lưu, sân bay Tân Sơn Nhất. Anh Minh Đỗ khá về tiếng Anh, tiếng Pháp, có hiểu biết về chuyên môn. Là một người làm báo chuyên nghiệp, một phụ tá có năng lực cho chủ bút, vui tính, ít nói, tận tụy, say mê nghề nghiệp. Anh phụ giúp tôi tận tình ở báo Điện Tín suốt mấy năm. Qua đến thời kỳ báo Tin Sáng, hồi II, tôi cũng làm phó chủ bút, Hồ Ngọc Nhuận làm chủ bút, anh Minh Đỗ cũng với tư cách thư ký toà soạn,đã phụ giúp tôi đắc lực.
Viết đến những dòng này sau hơn 30 năm làm báo, thời kỳ cộng tác với tôi ở báo Điện Tín và báo Tin Sáng, kỷ niệm giữa chúng tôi khá đậm đà. Anh Minh Đỗ từng là một cán bộ kháng chiến, yêu nước, yêu nghề làm báo, anh là một trong những cột trụ âm thầm của làng báo Sài Gòn xưa và nay. Bây giờ anh đã khuất, trong âm thầm lặng lẽ, trong sự thương tiếc của bạn bè và đồng nghiệp. Tôi ghi lại những dòng này để tưởng nhớ đến anh, một người cộng tác, đầy đủ những đức tính để các lớp đàn em học hỏi.
Minh Đỗ, Phan Ba, Sơn Tùng, Tô Nguyệt Đình những đàn anh nhà nghề mà ai viết về lịch sử của làng báo Sài Gòn trước ngày giải phóng không thể bỏ sót.
—–








Phần 2: Tờ báo, công cụ đấu tranh chính trị
- Với vai trò phó chủ bút thường trực mỗi ngày cùng làm việc với anh em từ đầu giờ cho đến lúc xong tất cả các trang, tôi là người phải ký bon cho máy chạy. Tôi duyệt các tin tức quan trọng, quyết định các tít lớn nhỏ, quyết định tin nào đi 8 cột, tin nào đi 5 cột, 4 cột…….2 cột, 1 cột.
- Chủ đề thời sự chinh trị thay đổi hàng ngày tùy theo tình hình chiến sự lúc đó, tùy theo nhiệt độ chính trị ở Quốc Hội, ở phủ Đầu Rồng (Dinh Độc Lập ) và tuỳ theo những diễn biến chinh trị ở Mỹ. Do đó luôn luôn phải có sự phối hợp tin tức trong ngoài, sự quan hệ giữa toà soạn với các giới thạo tin, với các trung tâm tin tức trong nước, ngoài nước. Điều hành một tờ báo lớn, mối quan hệ giao dịch phải rộng và làm sao lấy được nhiều luồng thông tin càng tốt.
Là một tờ báo đấu tranh chinh trị, mỗi ngày tôi phải viết một bản tin tổng hợp chính trị, có chủ đích, hướng dẫn dư luận theo chiều hướng mình muốn.
Để viết loại tin này, thứ nhất, tôi phải dựa vào các tin thời sự lớn về quân sự chính trị về các phong trào đấu tranh thành thị; thứ nhì phải suy xét xem hôm nay cần phải đánh vào mục tiêu nào; thứ ba phải xào nấu các nguồn tin cho hợp lý. Tin tổng hợp một phần dựa vào các nguồn thực tế, một phần dựa vào dư luận và một phần có tính cách kích động, vẽ vời, phóng lớn, làm nóng thời sự. Có khi tin tổng hợp được đưa lên “vedette”, có khi là một bản tin bình luận nằm phía dưới trang một, đi thành 3 cột hoặc 4 cột. Tên tác giả của các bản tin này thường là một bút danh hoặc ký dưới danh nghĩa nhóm phóng viên. Báo tranh đấu thường sử dụng tin tổng hợp làm vũ khí tiến công trong dư luận, đi trước dư luận hoặc hướng dẫn phân tách dư luận thời sự theo mục đích riêng.
Tôi nhớ lại giữa năm 1972 lúc chiến dịch tấn công các tỉnh miền Trung, các tỉnh vùng ven Sài Gòn của phía Việt Cộng đang hồi ác liệt, có lần tôi vào phủ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương (bây giờ là nhà văn hoá thiếu nhi Thành Phố Hồ Chí Minh) để nói chuyện chơi và cũng là để moi tin tức từ ông phụ tá của Phó Tổng Thống Hương. Ông Nguyễn Thạch Vân là học trò thân cận của thầy Trần Văn Hương. Dịp đó ông Nguyễn Thạch Vân có cho tôi biết tình hình chiến sự quanh Sài Gòn, ở các tỉnh Vùng III chiến thuật rất là bi đát “mỗi ngày Việt Cộng vây quanh Sài Gòn như vết dầu loang. Gọng kềm ngày càng siết chặt như cái thòng lọng. Việt Nam Cộng Hòa thua là cái chắc”.
Từ giữa năm 1972 người thân cận nhất với nhân vật số 2 của chế độ Sài Gòn đã nói với tôi rõ ràng như thế. Tin tức đó trở thành một đầu mối chỉ đạo hướng chiến đấu của báo Điện Tín, đang do tôi cầm cân nảy mực. “Sài Gòn đã hết thuốc chữa” từ dạo đó.
Tướng Dương Văn Minh lúc đó cũng đã về nước và không có ảo tưởng gì khác hơn “Sài Gòn sẽ thất thủ không chóng thì chầy” nếu Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục ngồi ở ghế lãnh đạo miền Nam. Nhắc tới anh Nguyễn Thạch Vân, tôi cũng xin kể lại công của anh ấy đối với cá nhân tôi trong việc xin cho tôi được hoãn dịch sáu tháng từ tháng 6 năm 1972 đến tháng 12 năm 1972. Lúc ấy tôi sắp bị Thiệu ra lệnh bắt đi quân dịch sau khi thất cử dân biểu. Tôi có mò vào dinh Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, xin bác Hương can thiệp với Bộ Quốc Phòng cho hoãn đi lính 1 hoặc 2 năm. Ông Trần Văn Hương tiếp tôi niềm nở và nói với Nguyễn Thạch Vân: “Thằng Ba tôi rất thương nó. Nhớ lại lúc làm Thủ Tướng, ra điều trần trước Hạ Nghị Viện, bị đám dân biểu gốc Bắc, thân Nguyễn Cao Kỳ la hét, đập bàn đập ghế mạt sát. Lúc đó tôi nhớ mãi: Chỉ có thằng Dương Văn Ba dám đăng đàn binh vực cho Thầy. Bây giờ Thầy phải trả ơn cho nó. Thạch Vân, em liên lạc với Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng nói Thầy xin cho Dương Văn Ba được hoản dịch 6 tháng đến 1 năm “.
Anh Nguyễn Thạch Vân đã sốt sắng làm việc đó. Chỉ mấy ngày sau tôi được Nha Động viên gởi giấy thông báo cho tôi được hoản dịch đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1972. Giấy hoãn dịch do Thiếu Tướng Bùi Đình Đạm ký.
Giờ đây, thầy Trần Văn Hương đã chết. Anh Nguyễn Thạch Vân không biết đã chết hay còn sống ở nước ngoài. Tôi không quên ơn hai người đã giúp tôi khỏi phải đi lính, trong đời chưa phải cầm súng một giây phút nào để bắn lại đồng bào tôi. Nhờ đó tôi còn tránh được tai họa do em út của Nguyễn Văn Thiệu trả thù trong trại lính, tránh được roi đòn của anh em Hoàng Đức Ninh, Chuẩn tướng tỉnh trưởng Bạc Liêu, kẻ thù trực diện của tôi khi tôi làm dân biểu. Nhờ đó tôi vẫn được tiếp tục cầm ngòi bút chiến đấu chống chiến tranh cho tới lúc có hoà bình.
Kỷ niệm về một bản tin tổng hợp
Một lần nhào nặn tin tổng hợp để hướng dẫn dư luận tôi suýt mang họa vào thân vì bản tin tôi viết hôm đó gây bực mình cho Tướng Dương Văn Minh. Lúc đó vào khoảng gần cuối năm 1974. Dư luận chống chinh phủ Sài Gòn đang mong muốn có sự hợp tác, bắt tay giữa phái Phật Giáo Ấn Quang, do Thượng toạ Thích Trí Quang cầm đầu và phe chủ trương hoà bình của Tướng Dương Văn Minh.
Đối với Phật Giáo Ấn Quang, Tướng Dương Văn Minh có cảm tình nhưng rát dè dặt ít khi nào chịu lộ diện công khai hợp tác trước dư luận.
Ông Dương Văn Minh có nhiều tình cảm thân thiện với hoà thượng Thích Thiện Hoa nhưng rất giữ kẽ với Thượng tọa Thích Thiện Minh và Thượng tọa Thích Trí Quang.
Đối với quần chúng Phật Tử ở miền Nam Thượng tọa Trí Quang được coi như thần tượng một phần vì sự ít nói và lập trường cứng rắn của ông ta đối với Thiệu, một phần vì vẻ mặt lúc nào cũng trầm tư. Dư luận muốn có sự nối kết công khai giữa Tướng Minh và Thượng toạ Trí Quang để hình thành một liên minh vì hoà bình, gây áp lực với chính quyền Thiệu.
Ngày hôm đó trong cơn sốt nóng bỏng của thời sự tôi và anh em đầu não báo Điện Tín “phịa” ra nguồn tin về sự xích gần của liên minh Big Minh và Trí Quang. Tin tung ra ngầm cho dư luận hiểu là giữa hai phía đã có sự đi đêm.
Bản tin đã không được cảm tình của Tướng Minh, còn khiến ông ta nổi nóng. Ông Minh không phản ứng thẳng với tôi mà bày tỏ sự bực mình về bản tin đó với luật sư Vũ Văn Mẫu, bác sĩ Hồ Văn Minh, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, giáo sư Lý Chánh Trung (thời kỳ đó Thiệu đã ra lịnh bắt lính tôi. Tôi đã phải di tản vào ngụ tại văn phòng chính trị cuả Đại tướng Dương Văn Minh vừa để trốn lính, vừa để tiếp tục trực tiếp và thường xuyên điều hành toà soạn báo Điện Tín. Mỗi ngày cứ 6giờ 30 sáng, bộ phận chủ yếu của tòa soạn gồm có Trương Lộc, Minh Đỗ, hoạ sĩ Ớt vào làm việc với tôi tại văn phòng số 3 đường Trần Quí Cáp. Đại tá Trương Minh Đẩu Chánh văn phòng của Tướng Minh, sắp xếp riêng cho chúng tôi một căn phòng lớn có tiện nghi đầy đủ để sửa soạn tin tức bài vở cho tờ báo. Một liên lạc viên được sử dụng dùng xe gắn máy –xe BC- chạy tới chạy lui giữa toà soạn và nhà in, vừa lấy các bản tin vừa đem bài vở đi sắp chữ. Liên lạc viên đó là NguyễnVăn Nhạn, em út của nhà thơ Cung Văn từ Đà Nẵng vào được tôi sử dụng tín cẩn và thân tình. Sau giải phóng Nguyễn Văn Nhạn chính thức vào nghề làm báo với tư cách phóng viên từ tháng 9-1975. Nhạn trở thành phóng viên Triệu Bình, khá năng nổ của báo Tin Sáng tập 2. Bây giờ trở thành biên tập viên của báo Sài gòn Giải Phóng. Một bước thăng tiến trong đời – từ vai trò giao liên đến vai trò ký giả – một chặng đường khó khăn, vất vã với nhiều biến cố ).
Tôi còn nhớ, hồi đó mỗi tuần vào chiều thứ ba và chiều thứ sáu tại văn phòng Tướng Minh thường xuyên có cuộc họp của Ban tham mưu chính trị
Hôm đó, vào chiều thứ ba, có Dương Minh Đức con trai của Tướng Minh ở Pháp về, tham dự. Dương Minh Đức đứng cản đường ở đầu cầu thang hàm ý không muốn cho tôi vào họp. Nhưng Luật sư Vũ Văn Mẫu, hiểu ý đã vội vã khéo léo kéo Dương Minh Đức tránh lối đi. Cuộc họp bắt đầu. Luật sư Mẫu nhắc chuyện bực mình của Tướng Minh đăng trên báo Điện Tín. Để xoa dịu, Giáo sư Lý Chánh Trung nói nhỏ với tôi “mày nên xin lỗi ổng đi” (tôi là học trò cũ của Thầy Trung ở Đại học Đà Lạt – môn Đạo Đức Học).
Tôi đã xin lỗi Đại Tướng Minh, sau khi nói rõ mục đích của bản tin: muốn kích động dư luận, gây phấn khởi cho quần chúng. Nhưng Tướng Minh chỉ nói một câu tiếng Pháp :” Je ne veux pas être compromis avec Trí Quang devant l’opinion publique” (Tôi không muốn bị công luận xem là có dính líu với Trí Quang). Mọi người cười giải hoà, Luật sư Mẫu tiếp tục ngay cuộc họp với dụng ý cho sự bực mình của Tướng Minh được tan mau.
Một sự kiện khác trong năm 1972 đã khiến báo Điện Tín của chúng tôi đi quá đà là việc khai thác tin tức về cái chết của sinh viên Nguyễn Thái Bình bị FBI Mỹ bắn chết trên máy bay của hãng hàng không Pan Am trên đường từ Mỹ về Sài Gòn, lúc sắp đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất.
Nguyễn Thái Bình là không tặc hay là người phản chiến yêu nước cướp máy bay để tạo dư luận khơi dậy lòng phẫn nộ đấu tranh của dân Sài Gòn chống Mỹ?
Bản tin của Hãng UPI đến tay chúng tôi vào khoảng 9 giờ sáng hôm đó. Lập tức Trương Lộc phụ tá của tôi kích động “mình phải làm lớn vụ này”. Tôi đồng ý thổi phồng ngay thành xi căng đan yêu nước chống Mỹ. Đòn đánh đó của anh em chúng tôi thật thành công vì hôm đó phải phát hành thêm gần 10 ngàn số báo. Ngày hôm sau, chúng tôi cho viết bài ngay về lai lịch Nguyễn Thái Bình (phóng viên Nam Thái Sơn phụ trách viết) ca ngợi hết mực một học sinh giỏi được học bổng du học Mỹ, học xuất sắc, gốc gác nhà nghèo. Thế mà vẫn dám đấu tranh chống bạo quyền ngay tại đất Mỹ, tham gia phong trào phản chiến.
Chúng tôi chỉ mới nắm hiện tượng, vội vàng thêm mắm dậm muối ngay vào hiện tượng đó, để khuấy động phong trào chống Mỹ, chống Thiệu. Thực tế trong hồ sơ nhà báo, không có một tài liệu hay vết tích gì về lịch sử bản thân của Nguyễn Thái Bình.
Biệt tài “chế biến” làm sôi động chính trường vào thời đó là sở trường của tôi và Trương Lộc trong khi điều hành, dàn dựng tin tức thời sự hàng ngày. Báo Điện Tín trong tay chúng tôi đã trở thành một chuỗi bom xăng đặc hàng ngày thường xuyên được cho nổ trong dư luận độc giả.
Báo chí và các tài phiệt
Tháng 11-1971 Điện Tín chỉ mới in được 8 ngàn bản một ngày. Sang đến tháng 9-1972, nhật báo Điện Tín đã vượt lên con số 60 ngàn một ngày, vượt qua mặt luôn tờ báo đông độc giả Sài Gòn lúc bấy giờ là tờ nhật báo Sóng Thần, do nữ sĩ Trùng Dương, tác giả tiểu thuyết “mưa không ướt đất” làm chủ nhiệm, nhà văn Chu Tử làm chủ bút. Qua năm 1973, nhật báo Điện Tín mỗi ngày đã bán ra trên 85 ngàn số, mặc dù luôn luôn bị “TYĐB” (tự ý đục bỏ).
Bị Nha Báo chí thường xuyên TYĐB, nhưng nhật báo Điện Tín phần lớn vẫn phát hành nguyên con từ Quảng Trị đến Cà Mau. Đài phát thanh Hà Nội và đài phát thanh Giải Phóng thường xuyên trích đọc tin và bài của báo Điện Tín hàng đêm. Tôi còn nhớ bài viết ký tên nghị sĩ Hồng Sơn Đông về ngày giỗ Tổ Hùng Vuơng mồng 10 tháng 3 (năm 1973) được đài phát thanh Hà Nội trích đọc ngay đêm hôm đó.
Hai nhà tài phiệt chủ thầu báo Điện Tín hưởng thật nhiều huê lợi do tờ báo mang lại là nghị sĩ Hồng Sơn Đông và tay trùm nhà in Nguyễn Văn Như (chủ nhà in Long Giang ở số 67 đường Lê Lai quận I).
Hồng Sơn Đông vừa là chủ nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I vừa là Nghị sĩ Quốc hội.
Ông ta làm chủ báo được 3 cái lợi :
- Thứ nhất: được danh tiếng là chủ tờ báo đối lập số 1 ở Sài Gòn.
- Thứ nhì: thực hiện được yêu cầu chính trị của nhóm Tướng Dương Văn Minh đề ra: Chủ trương hoà bình hoà giải dân tộc giữa các thành phần Việt Nam với nhau.
- Thứ ba: hưởng được lợi ích tài chính hàng ngày khá lớn.
Tờ báo Điện Tín mỗi ngày bán ra 80 ngàn số, mỗi số 15 đồng. Báo in 8 trang với hơn 2 trang quảng cáo.
Tiền bán báo mỗi ngày thu được trên 1 triệu đồng, các mục quảng cáo mỗi ngày thu trên 200 ngàn đồng. Chi phí cho ban biên tập toàn bộ khoảng 200 ngàn đồng (kể cả tiền mua các bản tin và mua các tạp chí quốc tế làm tài liệu, mua ảnh thời sự). Tiền giấy, tiền công in, tiền trả thợ sắp chữ trên dưới 400 ngàn đồng. Mỗi ngày lợi nhuận thu vào của tờ Điện Tín trên 500 ngàn đồng. Lãi thu được hàng tháng khoảng 20 triệu đồng. Đô la năm 1972 – 1973 tương đương 250 đ/1 đô la. Lãi hàng tháng tính bằng ngoại tệ khoảng 80 ngàn đô la, trong khi đó lương hàng tháng của toàn bộ ban biên tập, thợ sắp chữ trên dưới 20 ngàn đô la. Bài toán trên giúp chúng ta thấy được nghề làm báo là một nghề đạt siêu lợi nhuận nếu tờ báo đó có trên 10 ngàn độc giả và có từ 1 đến 2 trang quảng cáo.
Báo Thời Đại Mới chỉ in mỗi ngày 8 ngàn số, chỉ có hơn 1 trang quảng cáo, thế mà vợ chồng anh Hai Nguyễn Kiên Giang, chủ báo, vẫn có một đời sống ung dung dư dả, chiều nào anh Nguyễn Kiên Giang vẫn nhậu lai rai 3 – 4 ly Martell soda, còn chị Hai tháng nào cũng có thêm hột xoàn.
Tôi nhớ rất rõ, nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I của anh Hồng Sơn Đông ban đầu chỉ có 4 máy in Typo cũ. Sau khi báo Điện Tín (bộ mới) do anh Hồ Ngọc Nhuận và tôi làm chủ biên, chỉ trong 4 tháng anh Hồng Sơn Đông đã còm măn (commande) và đưa về 1 dàn máy in hiện đại Rotative offset 4 màu trị giá nửa triệu đô la (anh Hồng Sơn Đông lúc đó khoe cho tôi xem hoá đơn mua máy bằng ngoại tệ 500 ngàn đô). Ngay khi đó tôi thầm nghĩ tại sao Hồng Sơn Đông quá giàu; ban đêm về gác tay lên trán làm bài toán cộng trừ nhân chia mới thấy rõ ông chủ báo phát tài mạnh từ lúc Điện Tín vượt lên 40 ngàn số/ngày.
Làm chủ, nhất là làm chủ báo, thời đại nào cũng khỏe ru và còn được nhiều đặc quyền đặc lợi. Ở chế độ cũ, trong báo chí cũng chỉ có hai lớp người xa cách nhau rõ rệt. Lớp chủ báo và đầu nậu báo gồm ít người nhưng thụ hưởng trên 80% lợi nhuận. Còn lớp làm công, viết báo, biên tập viên, ký giả, thợ sắp chữ hưởng khoản 15% còn lại. Thợ lao động tay chân hay thợ lao động trí tuệ cũng xấp xỉ nhau. Thuyết Mác xít của Karl Marx và Lênin có khá nhiều điều không đúng trong thời hiện đại, nhưng đối với chủ và thợ, giữa tư bản và công nhân, quả là Karl Marx đã nói lên sự thật não nề, nhất là ở các nước đang phát triển. Người chủ hay giai cấp chủ nhân thường dựa vào tình trạng không có đầy đủ luật lệ hoặc luật lệ chưa rõ ràng hoặc dựa vào thế lực của các cấp chính quyền mà họ mua chuộc được, đồng thời dựa vào tình trạng người thất nghiệp đông đảo để luôn bóc lột những người đi làm thuê làm mướn. Chủ hưởng trăm lần, công nhân không được hưởng đến mười phần. Bóc lột trong báo chí ở chế độ cũ cũng không khác với quy luật trên. Thời trước có rất nhiều cai thầu báo chí. Một trong những cai thầu báo Điện Tín, báo Đại Dân Tộc là Nguyễn Văn Như, Nguyễn Văn Hiển, Tỷ Giấy.
Nguyễn Văn Như chủ nhà in Long Giang, chủ thầu in báo, bán báo Điện Tín, Đại Dân Tộc suốt bốn năm liền (có lúc thầu luôn báo Tin Sáng). Quyền lợi Như và Hiển được hưởng to lớn không kém gì các ông chủ báo thứ thiệt.
Cai thầu báo chí không cần dính líu tới nội dung tờ báo. Chỉ cần báo chống chính quyền càng mạnh, có càng nhiều quảng cáo, số phát hành càng cao, bàn càng đắt. Họ bóc lột sức lao động của công nhân, ký giả, ngay đến kỳ thưởng lương Tết, tháng thứ mười ba, họ cũng kèo nài bớt nửa tháng. Tình trạng này xảy ra cho báo Điện Tín Tết năm 1972-1973. Dù số lượng phát hành lớn, cai thầu Như, Hiển và chủ báo Hồng Sơn Đông cũng chỉ chịu trả thêm cho anh em nửa tháng lương. Tôi với tư cách chỉ huy toà soạn chịu trách nhiệm trước anh em phải đấu tranh kỳ kèo mãi. Thế mới biết đối với đa số chủ tư bản và cai thầu, cắt xén được tiền bạc của công nhân dù là công nhân trí thức, được thêm mớ nào để túi họ đầy thêm mớ nấy. Làm sao quên được dù cảnh đó đã xảy ra cách đây gần 30 năm rồi.
Ở những báo không có cai thầu vì chủ báo là tư sản có tiền trực tiếp đầu tư như báo Tia Sáng, Sài Gòn Mới, Trắng Đen, Thần Chung, tình trạng khai thác lợi nhuận, cắt xén bớt quyền lợi của công nhân, ký giả vẫn xảy ra. Ở các báo này tình hình thu nhập hàng tháng của những người viết lách cũng không sáng sủa hơn. Làm ký giả, phóng viên lãnh lương cũng chỉ đủ sống tàm tạm qua ngày nếu những người đó không biết kiếm thêm bằng cách chạy mánh.
Mánh báo chí
Có quá nhiều loại.
Viết báo bôi đen, gây xì căng đan để làm tiền. Nhiều cô ca sĩ, minh tinh màn bạc từng bị ngón đòn này.
Viết báo lăng xê gà cũng để làm tiền. Gà có nhiều loại. Diễn viên, kịch sĩ cũng có thể là gà. Thầy bói, thầy tướng số cũng mướn báo chí lăng xê. Thầy tu, thầy bùa cũng cần có báo nhắc đến tên mới có đông tín đồ, đông thiện nam nhất là đông tín nữ.
Dân biểu, nghị sĩ, Hội đồng Thành phố, Hội đồng Tỉnh cũng phải nuôi đàn em ở một vài toà báo phòng khi hữu sự.
Lăng xê các mưu đồ mua bán, lũng đoạn thị trường cũng có thể bỏ tiền ra nhờ báo chí làm giùm.
Quý vị độc giả có tuổi có thể nhớ lại chiến dịch nuôi chim cút khoảng năm 1965-1966. Một cặp chim cút mua từ Hồng Kông mang về phải trên 1 ngàn đô la. Gian thương Hồng Kông và Chợ Lớn đã hợp tác nhau mướn báo chí lăng xê chim cút biết đẻ ra trứng vàng làm cả Sài Gòn và một số tỉnh lớn ở miền Nam như Cần Thơ, Biên Hoà, Mỹ Tho ùn ùn đổ tiền ra đi mua chim cút về nuôi.
Chim cút ăn vào cường dương, hồi sinh, sung mãn. Trứng cút ăn nhiều trị được bịnh hen suyển, dị ứng kinh niên. Báo chí thời đó nhứt là báo Trắng Đen đã đi tiên phong và đưa phong trào nuôi chim cút lên ào ạt. Sau khi đã hốt được hàng chục triệu đô la của dân có máu buôn chợ đen, dân đầu cơ Sài Gòn, Chợ Lớn, đám đại xì thẩu Hồng Kông bắt đầu cho quả bóng chim cút xẹp xuống thật nhanh. Chỉ trong vài tuần lễ không còn ai mua chim cút với giá cao nữa. Biết bao gia đình đã điêu đứng vì cao trào chim cút. Lúc đó mới vỡ lẽ ra: có một bọn gian thương quốc tế mua chuộc báo chí để thổi phong trào lên mà hốt đô la.
Đám gian thương này dính líu với chủ các câu lạc bộ ăn chơi nổi tiếng của Sài Gòn, Chợ Lớn là Câu lạc bộ Xanh, Câu lạc bộ Tím, Câu lạc bộ Hồng, những nơi chiêu đãi nhất dạ đế vương các quan quyền cao cấp thời kỳ trước. Chính quyền cũ không màng đến các suy sụp, do đầu cơ trong tình hình kinh tế, nên không hề truy tìm nguyên nhân và thủ phạm.
Làm báo cũng có số mệnh …?!
Nhật báo Điện Tín bộ mới xuất bản liên tục từ tháng 11-1971 đến tháng 3-1975 (có lẽ vào ngày 20-3-1975) bị đóng cửa. Người ký tên rút giấy phép báo Điện Tín là Hoàng Đức Nhã em cùng mẹ khác cha với Nguyễn Văn Thiệu, Bộ trưởng Bộ Thông tin Chiêu hồi.
Điều đáng buồn đối với riêng cá nhân tôi suốt đời 3 lần làm trụ cột 3 tớ báo khác nhau, từ năm 1965 đến năm 1975, cả 3 tờ báo đều bị chính quyền rút giấy phép xuất bản.
Tuần báo Tiếng Gọi Miền Tây ở Mỹ Tho từ 1965 đến 1966 bị ông Nguyễn Cao Kỳ buộc đình bản.
Tuần báo Đại Dân Tộc xuất bản tại Sài Gòn năm 1968 đến giữa năm 1969 bị ông Ngô Khắc Tỉnh cấm xuất bản.
Lần thứ ba, nhật báo Điện Tín bị đóng cửa cách ngày tàn của chế độ Thiệu sáu tuần lễ.
Nếu tin vào số mạng, phải kết luận số của tôi đen không làm được việc gì lớn mà vững bền. Điều này sẽ ứng nghiệm một lần nữa sau ngày giải phóng khi tôi làm hợp tác phát triển kinh tế với đất nước Lào. Bước đầu đang có nhiều thành công lớn, đang được chính phủ Lào trọng vọng, mới trong vòng 3 năm tôi trực tiếp bị ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam do hiểu lầm, do bị xúc xiểm tôi là đệ tử của một ông lớn khác, không điều tra rõ ràng đã ra lịnh bắt bỏ tù tôi. Chuyện dài này tôi sẽ xin kể lại ở phần thứ nhì của tập sách .
Đến nay trên 60 tuổi chiêm nghiệm lại cuộc đời nhiều khi phải nhìn nhận con người có số mệnh.
Như Ngô Công Đức ông ta có số mệnh làm việc gì cũng thành công.
Làm chủ báo Tin Sáng thời Nguyễn Văn Thiệu, phát tài lớn dù là báo đối lập, “nặng ký lô”, không một lần bị đóng cửa.
Qua thời kỳ giải phóng sau năm 1975, Ngô Công Đức được chính quyền cách mạng giao làm chủ nhiệm nhật báo Tin Sáng “tư nhân”, tiếp tục làm giàu cho đến khi Tin Sáng cáo chung vì hết vai trò sử dụng trong chế độ mới. Đến thời kỳ làm chủ hãng sơn mài, chủ hãng đồ gốm Ngô Công Đức vẫn được chính quyền giúp đỡ. Chính Ngô Công Đức thường rêu rao dân giàu nước mới mạnh trong khi một thời ông Đỗ Mười chủ trương nước giàu dân mạnh. Phải nhìn nhận Ngô Công Đức là một tay chính trị già dặn có nhiều khi đi trước thời cuộc, cái hay của ông ta là tạo được sự tin tưởng để chính quyền cách mạng giao cho tờ nhựt báo Tin Sáng tư nhân, tiếp tục hưởng lợi trong thời kỳ quá độ. Trong những lúc rượu say ngà ngà, Ngô Công Đức thường khoe về chiến thuật sống của ông ta: đó là chiến thuật “lắc”. Ông ta là chuyên viên lắc tới, lắc lui, vừa lắc vừa nhậu, lắc qua lắc lại để tìm cách đi tới, đi lên. Khi đụng phải vật cản, ông ta tạm dừng lắc hoặc tạm né qua một bên, sau đó tìm cách lắc tới. Chiến thuật “con lắc” tuyệt vời đem đến cho ông ta nhiều sự thành công.
Xin đóng ngoặc lại, tạm ngưng không nói về chuyện số mệnh nữa, để nhắc lại chuyện Điện Tín bị đóng cửa, có một kỷ niệm rất là “militant” (tranh đấu). Sau khi báo Điện Tín bị đóng cửa, tôi và anh Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu quyết định tiếp tục xuất bản nhật báo Điện Tín, Tin Sáng, in Ronéo phát hành hàng ngày. Bán rất chạy.
Trụ sở tòa soạn báo phát tay dưới dạng truyền đơn này vẫn là văn phòng của Tướng Dương Văn Minh tại số 3 đường Trần Quý Cáp. Chủ bút kiêm chủ nhiệm là Hồ Ngọc Nhuận. Dương Văn Ba vẫn là Phó chủ bút kiêm Tổng thư ký tòa soạn. Nhưng lần này chỉ có Dương Văn Ba một mình ngồi soạn tin soạn bài làm công việc của biên tập viên. Còn những cây bút bình luận chính trị có thêm Nguyễn Hữu Chung, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu. Người đánh máy của nhật báo phát tay như truyền đơn là Trung sĩ Đỗ Tấn Phát, lính của Đại tá Trương Minh Đẩu. Trung sĩ Phát có biệt tài đánh máy 10 ngón tay và đánh rất nhanh. Mỗi ngày phải đánh máy tối thiểu 50 trang in ronéo. Công việc đó một mình Trung sĩ Phát làm, rất hăng say tận tụy.
Người quay ronéo, in báo là Dương Thị Nhung, còn hệ thống phát hành báo là chiếc xe LaDalat của Hồ Ngọc Nhuận, chiếc xe Toyota 800 cuả Kiều Mộng Thu cùng với các dân biểu đối lập. Mỗi ngày chúng tôi phát hành trên 5 ngàn tờ Điện Tín Tin Sáng in ronéo. Cuộc chiến đấu trên báo chí vẫn tiếp tục với quy mô nhỏ hơn tại Sài Gòn nhưng căng thẳng hơn và nguy hiểm hơn. Báo in ronéo vẫn bán chạy, vẫn thu được tiền. Các độc giả ở các chợ, các chùa, các Trung tâm Đại học vẫn đổ xô mua báo lậu. Báo in tay của chúng tôi phát hành đến ngày 26-4-1975 mới đình bản. Lý do: ngày 27-4-1975, Tướng Dương Văn Minh được Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa giao quyền Tổng Thống. Tôi, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt), Trương Lộc và Nguyễn Ngọc Thạch chuẩn bị cho tờ Điện Tín (Lớn) tái xuất giang hồ vào ngày 28-4-1975.
Số báo Điện Tín bộ thứ 3 in 4 trang ra mắt độc giả ngày 29-4-1975 đặt tòa soạn tại nhà in số 101 đường Võ Tánh quận I, phát hành 10 ngàn tờ.
Dương Văn Ba, Trương Lộc, Huỳnh Bá Thành, Minh Đỗ, Nguyễn Ngoc Thạch vẫn tiếp tục điều khiển tờ báo. Nhớ lại ngày đó Sài Gòn tán loạn, tan tác như đàn vịt vỡ bầy, ùn ùn đua nhau tìm cách di tản. Thế mà chúng tôi vẫn tiếp tục săn tin viết báo, in báo và phát hành báo.
Nhật báo Điện Tín bộ thứ 3 chỉ có 1 ngày tuổi. Đến bây giờ không biết tìm đâu ra ấn bản hi hữu đó. Trong tủ sách riêng của gia đình Huỳnh Bá Thành, bà Nguyễn Thị Ninh, vợ anh Thành, có giữ được một vết tích nào không?
Sáng hôm sau, ngày 30-4-1975 Sài Gòn vang dậy tiếng súng và cờ đỏ đã tràn ngập phố phường. Báo Điện Tín, tờ báo cuối cùng của chúng tôi khai tử vào ngày đó. Đó cũng là ngày cáo chung vĩnh viễn của làng báo tự do tư sản ở miền Nam Việt Nam (29-4-1975).



Kỷ niệm của hai ký giả với Cảnh sát Đô thành
Tôi xin kể thêm 2 kỷ niệm nhỏ nhưng cũng khá vui trong đời làm báo Điện Tín của tôi, Trương Lộc và Huỳnh Bá Thành.
Kỷ niệm đầu, vào năm 1972 khoảng giữa tháng 3. Lúc đó, nhà tôi ở trong đường Nguyễn Tri Phương quận 10, gần nhà Trương Lộc (dân biểu Lý Quý Chung cũng ở kế cận). Sáng sớm mỗi ngày, khoảng 6 giờ, Trương Lộc chạy chiếc xe Lambretta cũ, đèo tôi đi từ đường Nguyễn Tri Phương ra đường Võ Tánh. Một buổi sáng, chúng tôi chạy đến gần trường Nguyễn Bá Tòng, bị 2 quân cảnh chận lại xét giấy tờ. Tôi trình thẻ dân biểu (lúc đó tôi vẫn còn giữ). Trương Lộc bị quân cảnh hỏi giấy hoãn dịch, mặt mày tái mét. Anh đang trốn quân dịch. Hai lính quân cảnh đòi bắt Trương Lộc. Tôi điều đình “chung” cho họ 100 ngàn đồng (bằng 2,5 lạng vàng ), lính quân cảnh đồng ý. Tôi để Trương Lộc đứng đó chờ, vội vã chạy đến nhà Nguyễn Văn Như, thầu báo Điện Tín, mượn tiền. Nhà Nguyễn Văn Như ở đường Lê Lai, gần đó. Sau 15 phút tôi quay lại lãnh Trương Lộc đi. Khi chung tiền xong, hai anh em, lên xe Lambretta, dông thẳng.
Bây giờ, chắc Trương Lộc chưa quên chuyện đó dù ông ta đang rất giàu và cũng là một nhân vật có máu mặt thời nay.
Chuyên thứ 2 liên quan đến Huỳnh Bá Thành, về sự dũng cảm của anh ta.
Mỗi buổi trưa khoảng 12 giờ 30, sau khi báo lên khuôn, máy in bắt đầu chạy, anh em đầu não của toà soạn Điện Tín thường rủ nhau đi ăn cơm ở đường Lê Lai. Thời gian đó tôi có chiếc xe hơi Datsun màu trắng 1.500 (xe mang biển số X nhưng tôi cho đổi bảng số thường, đổi lậu). Xe này thỉnh thoảng dân biểu Hồ Ngọc Nhuận hay lấy sử dụng (không biết ông ta đi đâu, có khi là đi liên lạc với Việt Cộng, Hồ Ngọc Nhuận thường hay bị công an chìm theo dõi, cho nên xe tôi cũng bị theo dõi mà không hay).
Trưa hôm đó, khoảng 13 giờ 30 tôi, Trương Lộc, hoạ sĩ Ớt đi ăn cơm về đến nửa đường Lê Lai, bên hông ga xe lửa. Một đám công an áo vàng, áo thường phục chận xe lại xét. Ớt thắng xe lại và nói “anh Ba, anh Lộc vọt đi để tôi đối phó”.
Lộc vọt nhanh nhất vào hẻm (vì đang trốn quân dịch). Tôi cũng vọt theo vì xe mình không có giấy tờ hợp lệ (biển số lậu). Huỳnh Bá Thành ở lại bị bắt về bót quận Nhì, giam mất hai ngày.
Cũng may Trưởng ty cảnh sát quận Nhì là Trung tá Phan Trung Chánh, bạn của tôi. Lúc đó hồ sơ của tôi trong công an cũng đã bị ghim đen. Buổi tối, hai lần liên tục, tôi phải đến nhà riêng của Phan Trung Chánh năn nỉ vợ anh ta nói giùm để thả hoạ sĩ Ớt ra (Trung Tá Chánh không dám tiếp tôi ban ngày, ngại bị Trang Sĩ Tấn – Giám đốc Cảnh sát Sài Gòn phát hiện).
Huỳnh Bá Thành vì bạn, vì tờ báo phải ở tù 2 ngày, bị muỗi cắn, mà vợ ở nhà không hay biết tưởng là anh ta đi làm việc như thường lệ.
Sau giải phóng tôi mới biết Huỳnh Bá Thành là công an cộng sản. Lần ở tù đó anh Thành bị cấp trên trong bí mật khiển trách vì tật dám phiêu lưu, không sợ lở hư việc lớn. Tưởng cũng nên nói thêm chiếc xe hơi của tôi bị Trang Sĩ Tấn ra lệnh tịch thu vì trên xe chứa toàn phim ảnh biểu tình xuống đường của các sư cô và của sinh viên (đó là tài liệu của Hồ Ngọc Nhuận) và vì xe mang biển số lậu.
Vài dòng về mục ký sự nhân vật trong báo Điện Tín
Trong đoạn trên, nhân nhắc lại những kỷ niệm với anh Huỳnh Bá Thành (tức Hoạ sĩ Ớt), một người đã có quá nhiều kỷ niệm với tôi thời kỳ làm báo Điện Tín từ năm 1972 đến 30-4-1975, tôi xin được phép nói rõ thêm một vài chuyện liên quan đến anh Thành:
- Anh Huỳnh Bá Thành một con người tài hoa, đầy nhiệt huyết: một nghề tay trái nhưng rất giỏi của anh Thành có thể nhiều người chưa biết đến, đó là nghề tạc tranh truyền thần, chân dung trên đá cẩm thạch. Huỳnh Bá Thành quê ở Đà Nẵng, lúc nhỏ anh có học nghề tạc tranh trên đá ở Non Nước. Nét tạc của anh rất điêu luyện, duyên dáng và rất có thần. Để tạc một bức chân dung, anh sử dụng không quá 3 giờ đồng hồ. Chính mắt tôi đã thấy tài tạc tranh của anh cho nhiều người. Ai nhận được bức tranh anh tặng, thật là một điều hạnh phúc. Khi cha tôi mất năm 1981, anh Thành có tạc một bức chân dung của cha tôi để kỷ niệm. Sau này nghe nói anh có tặng cho ông Đinh Đức Thiện và ông Mai Chí Thọ mỗi người một tác phẩm truyền thần của anh.
- Huỳnh Bá Thành tức Hoạ sĩ Ớt, người vẽ hí họa nhân vật rất sắc nét và được độc giả miền Nam mến mộ thời kỳ 1972-1975. Những bức tranh châm biếm của hoạ sĩ Ớt về Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hương, Kissinger, Nixon… là những tác phẩm nghệ thuật trào phúng chính trị để đời. Tưởng nên làm một cuộc sưu tập tất cả các tranh trào phúng ở trang nhất của báo Điện Tín từ tháng 12-1971 đến hết tháng 3-1975, chúng ta sẽ có một kho tàng tài liệu hí họa chính trị quí báu. Điều đáng nói là hoạ sĩ Ớt vẽ tranh trào phúng rất nhanh. Thường thường mỗi buổi sáng khoảng 8 giờ 30 đến 9 giờ, anh Ớt hội ý với tôi và Truơng Lộc về đề tài cần vẽ cho ngày hôm đó. Sau khi nghe hai chúng tôi góp ý, Ớt quyết định phát thảo những đường nét tiêu biểu. Chỉ sau 20 phút, báo Điện Tín chúng tôi đã có một bức tranh châm biếm, đủ sức hấp dẫn dư luận độc giả ngày hôm đó. Ớt vẽ rất nhanh, nhưng chiều sâu ý tưởng châm biếm của anh rất tiềm tàng, mỗi người có thể khám phá một nét duyên dáng riêng qua tranh của anh.
- Cũng trong thời kỳ Ớt vẽ tranh biếm họa cho trang 1, ở trang 4 của báo Điện Tín có mục “ký sự nhân vật”. Mục này do tác giả Trần Văn Lê phụ trách. Trần Văn Lê là bút danh của Trần Trọng Thức thời kỳ làm báo Điện Tín. Các bài viết về các nhân vật chính trị, văn hoá, thời sự của Trần Văn Lê đăng trên báo Điện Tín thu hút khá đông độc giả. Ngòi bút của Trần Văn Lê khá duyên dáng gợi cảm, phân tích những đặc điểm của nhân vật khá lý thú, cho nên mục ký sự nhân vật cũng là một thế mạnh của báo Điện Tín, thời kỳ tôi phụ trách. Nhưng mục “ký sự nhân vật” có tiếng vang tốt chỉ đem lại cái hại cho Trung Uý Hải Quân Trần Trọng Thức (lúc đó Thức đã bị động viên vào Hải quân). Bộ Tư lệnh Hải Quân Sài Gòn doạ kỷ luật Thức nếu anh không bỏ nghề viết ở báo Điện Tín. Để tránh bị trù dập, Thức phải bỏ ngang mục “ký sự nhân vật”. Thời kỳ đó, tôi với tư cách Phó chủ bút thường trực phải tiếp tục viết thay cho Trần Văn Lê và ký tên “người giấu tên”. Để mục “ký sự nhân vật” có thêm sức sống, hấp dẫn, tôi bàn với họa sĩ Ớt, cứ mỗi nhân vật, phát thảo một chân dung dựa vào các bức ảnh có được và dựa vào nét hài hước chủ yếu trong cuộc đời của đương sự. Thế là, từ đầu năm 1973, mục “ký sự nhân vật” giai đoạn II do tôi viết thế cho Trần Trọng Thức, có kèm theo hí hoạ của Ớt. Mục này tồn tại cho đến thời kỳ báo Điện Tín bị đóng cửa vào cuối tháng 3-1975.
- Vào năm 2002, nhà xuất bản Trẻ của TPHCM có sưu tập các bức ký họa của Ớt trong Mục ký sự nhân vật của báo Điện Tín, in thành một tác phẩm rất dầy và đẹp.
Anh Hồ Ngọc Nhuận, nguyên chủ bút báo Điện Tín thời kỳ 1971 – 1975, biết rõ có sự nhầm lẫn về quyền tác giả trong cuốn sách ký sự nhân vật đó. Tác giã các bức tranh là Ớt, còn tác giã các bài viết là tôi – Dương Văn Ba. Anh Nhuận có gửi thư cho nhà xuất bản Trẻ, cho anh Trần Tử Văn, báo Công An TPHCM, anh Lý Tiến Dũng – báo Phụ Nữ TPHCM, chị Nguyễn Thị Ninh- vợ anh Ớt, để nói rõ về sự nhầm lẫn nầy. Tôi cũng xác nhận những bài viết là của tôi, thời kỳ tôi thay thế Trần Trọng Thức. Còn những bức vẽ độc đáo là của Ớt – tự những bức vẽ đó đã nói lên chân tài của một nghệ sĩ quá cố.
Báo chí mạnh hơn các quân đoàn
Trong đấu tranh cách mạng, báo chí là một mặt trận, đôi khi quan trọng hơn cả chiến trường quân sự.
- Báo chí tung tin, tạo dư luận, hướng dẫn dư luận.
- Báo chí tung hỏa mù, soi sáng hỏa mù
- Báo chí là những họng súng có sức công phá lớn hơn các loại đạn pháo, bom chùm hay bom bi. Báo đánh thẳng vào cân não kẻ địch, gây hoang mang, làm lụn bại tinh thần đối phương.
Một tờ báo có nhiều độc giả mạnh hơn một quân đoàn. Báo đánh vào chiều sâu chiều rộng, đánh vào đầu, vào sâu thẩm trái tim kẻ thù.
Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trong 10 năm cầm quyền không thấy hết sự nguy hiểm thâm sâu của báo chí. Theo đường lối dân chủ tư sản, chính quyền Thiệu buộc phải tạo ra bề ngoài có tự do báo chí.
Chính vì không lường hết sự thâm sâu của sức mạnh báo chí, một phần nguyên nhân gần khiến Thiệu phải thua và phải lưu vong.
Hầu như trong bất cứ tờ báo nào ở Sài Gòn cũ từ 1965 đến 1975 cũng đều có cán bộ cộng sản hoặc người thân cộng giả danh nằm vùng. Báo Công Luận của Tướng Tôn Thất Đính từng có Lê Hiền tức Cao Minh Hựu là cán bộ địch vận của Việt Cộng. Có thời gian Lê Hiền trở thành chủ nhiệm báo Bút Thép. Báo bề ngoài có vẻ thương mại là báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà. Bà Bút Trà cũng có người thân là Việt Cộng.
Báo Tin Sáng do Ngô Công Đức làm chủ nhiệm, Ngô Công Đức cũng đã đi theo Việt Cộng (theo tới cùng hay theo nửa chừng hoặc bên trong còn bọc lót áo màu gì chưa biết). Riêng Hồ Ngọc Nhuận đã được móc nối tại Paris bởi Đại Sứ Phạm Văn Ba và Đại Sứ Nguyễn Văn Tiến trong năm 1968.
Báo Điện Tín do Hồng Sơn Đông làm chủ nhiệm, nhưng Trương Lộc thư ký toà soạn hoạt động thân cộng sản trước năm 1968. Giám đốc trình bày, hoạ sĩ Ớt là sĩ quan công an (năm 1975 đeo lon đại úy). Nguyễn Đình Phúc, trợ lý về montage của Ớt, đeo lon trung úy công an. Nhiều báo khác nữa như báo Trắng Đen, Đông Phương, Bút Thần, Tia Sáng kể cả báo Tự Do của cha Nguyễn Quang Lãm, cũng có người thân cộng sản được cài vào.
Cán bộ cộng sản nằm trong ban biên tập, nằm trong hệ phóng viên hoặc nằm trong nhà in, trong thợ sắp chữ. Xếp typo của báo Điện Tín, giải phóng xong mới biết là Việt Cộng nằm vùng.
Cũng như cố vấn của Tổng thống Thiệu, Huỳnh Văn Trọng hay Vũ Ngọc Nhạ, là nhân viên tình báo cao cấp của cộng sản. Đầu bếp của Tướng Dương Văn Minh, mỗi ngày nấu ăn cho vợ con ông ta, là anh Năm quê ở Mỹ Tho, sau giải phóng mới biết là người do cộng sản cài đặt từ lâu.
Báo chí Sài Gòn bị màng lưới tình báo cộng sản vây chặt dưới nhiều hình thức, đóng nhiều vai trò qua nhiều thời kỳ liên tục. Kể cả ông Phạm Xuân Ẩn, một tay làm báo có cỡ của tờ Time, là nhân viên tình báo chiến lược của Trung Ương Cục. Nhìn bề ngoài, ông Phạm Xuân Ẩn giống như tay chơi, nuôi chó bẹcgiê, nhậu whisky Mỹ liên tục, ngày nào cũng có mặt ở quán Givral đường Bonard trước cửa Hạ nghị viện.
Nguyễn Văn Thiệu đã thua ngay trong những lúc ông ta tưởng là mình mạnh nhất, thời kỳ độc diễn 1971-1972. Thiệu không có đạo quân vô hình, Mỹ cũng không có đạo quân vô hình. Ngược lại họ còn bị cô lập, bôi đen, bắn lén từ tứ phía bởi đạo quân ma, quân chữ viết in trên giấy, trăm đầu trăm tay không biết đánh lúc nào, không biết bắn từ đâu mà chỉ thấy mỗi chữ như một viên đạn, bắn từ nhiều nơi, không biết đường đâu mà đỡ.
Nhà thơ Kiên Giang, nhà văn Sơn Nam, các thư ký tòa soạn, Sơn Tùng, Minh Đỗ những người này từng là cán bộ kháng chiến luôn hoạt động có lợi cho cộng sản kiểu này hay kiểu khác.
Những ông chủ báo, những ông chủ thầu, đâu có khi nào sống một ngày 24 giờ với tờ báo của mình. Chính các lực lượng ngầm bên trong các toà soạn điều khiển trực tiếp hay gián tiếp, xa hay gần đội quân ma trong báo chí. Báo Sài Gòn vô tình trở thành công cụ tuyên truyền và đấu tranh trong chiều hướng có lợi cho cộng sản. Các cuộc xuống đường biểu tình của phong trào báo chí, ký giả đi ăn mày, được tổ chức bởi những nhà báo nổi tiếng như Nguyễn Kiên Giang, Lý Quí Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung. Nhưng bên trong và đàng sau của những cuộc xuống đường rầm rộ đó, sau thời kỳ luật báo chí 007 được ban hành, hầu như đều có mặt của những người mặc áo lót đỏ.
Cuộc chiến đấu nhiều mặt
Chế độ cũ giới hạn quyền tự do báo chí bằng việc ràng buộc ai muốn xin ra báo phải đóng ký quỹ 100 triệu đồng (tương đương 300 cây vàng). Thực tế luật ký quỹ chỉ cản trở được nhà báo nghèo như Lý Quí Chung (Lý Quí Chung hết làm chủ báo từ sau luật 007). Còn 100 triệu hay một hoặc vài tỷ bạc, những người hoạt động nội thành của cộng sản khi nào cần là có ngay. Cuộc chiến đấu ở thành thị muôn mặt. Sử dụng đồng tiền để ngăn chặn cộng sản hoạt động, chế độ Thiệu với anh thanh niên playboy Hoàng Đức Nhã làm Tổng trưởng Thông tin chiêu hồi, đã phạm sai lầm lớn.
Bộ phận hoạt động thành của cộng sản có tiền nhiều hơn những nhà tài phiệt lớn ở Sài Gòn đang đi theo Mỹ và Thiệu. Tiền của cộng sản hoạt động thành đến từ nhiều nguồn tài trợ nhất là tài trợ quốc tế. Nó đến từ Trung Quốc, đến từ Liên Xô, đến từ những phong trào Việt kiều yêu nước thân cộng. Chính mắt tôi có lúc đã chứng kiến 2 nhà yêu nước thật sự của Sài Gòn (nghèo thấy mẹ) mà cầm xấp đô la tài trợ cho một số sinh viên hoạt động biểu tình. Không biết tôi có nên nói tên hay không. Cũng cứ nói, dù các đàn anh đáng kính của tôi có giận: Thầy Lý Chánh Trung và anh Hồ Ngọc Nhuận.
Những người hoạt động nội thành của cộng sản sử dụng đồng tiền để tăng thêm thế mạnh áp đảo của súng đạn, tăng thêm sức mạnh ngấm ngầm nhưng dữ dội của đạo quân ma trong làng báo thành thị. Sau ngày giải phóng mới rõ ra Lữ Minh Châu – Giám đốc Ngân hàng Phát triển Nông thôn ở Cần Thơ là cán bộ cao cấp của cộng sản. Ông Lữ Minh Châu đã sử dụng xe của ngân hàng Cần Thơ chở tiền đồng và đô la Mỹ đi phân phối cho các tổ kinh tài tại Sài Gòn và các tỉnh. Lữ Minh Châu, gốc người Cà Mau tham gia kháng chiến chống Pháp, tập kết ra Bắc. Hai năm sau (1956) ông được gởi đi Liên Xô du học. Từ Liên Xô ông được đánh vòng qua Pháp học về ngành tài chinh ngân hàng. Từ Pháp, ông được đưa về Nam Vang với tư cách Việt kiều Cam Bốt, giàu có. Ông ta có dáng vẻ thư sinh, nho nhã, trắng trẻo còn hơn nhiều người nhà giàu Sài Gòn chính cống. Trong cái vỏ bọc đó, rất giàu sang, từ Nam Vang, ông Lữ Minh Châu được đưa về Cần Thơ tham gia hoạt động ngân hàng. Ông trở thành giám đốc Ngân hàng Phát triển Nông thôn có hùn vốn lớn với mấy ông “đại xì thẩu” ở Tây Đô. Chính đó là môi trường thuận lợi, hợp pháp để ông Lữ Minh Châu dùng tiền tài trợ cho không biết bao nhiêu hoạt vụ.
Chế độ cũ phạm nhiều sơ hở về tình báo và kinh tài so với cộng sản. Sử dụng tiền để làm rào cản trong báo chí, Thiệu và các quân sư của ông đã sa vào cái hố to. To đến sau khi thất trận, mới thấm thía, đau đòn về chiến lược cài người đánh trên mọi mặt trận của phía cộng sản.
Ba mũi giáp công… năm mặt bao vây… báo chí Sài Gòn là một mặt trận lớn. Người điều binh khiển tướng là Khổng Minh Cộng Sản, chớ không phải các cố vấn Mỹ hay anh công tử bột, cao bồi Hoàng Đức Nhã.
Xin các bạn chịu khó tìm lại đọc các bản tin chiến sự từ giữa năm 1973 cho đến đầu năm 1975 trên hầu hết các báo Sài Gòn.
Soi rọi lại các dòng tít lớn mỗi ngày trên các nhật báo thời đó, con ma trốn trong bóng đêm cũng phải thấy rằng Việt cộng sẽ thắng, Việt Nam Cộng Hòa sẽ thua.
- Hàng rào điện tử McNamara đã bị vô hiệu
- Quảng Trị đã thất thủ
- Huế bị bao vây, đêm là việt cộng, ngày là chính quyền
- Việt cộng sắp đánh Pleiku.
- Ban Mê thuột thất thủ
- Tây nguyên hoảng loạn
- VNCH chỉ còn giữ được từ Phan Thiết trở vào
- Việt cộng đã về tới và bao vây Long Khánh
- Mỹ dội bom 7 tấn cản đà tiến quân Bắc Việt
Trước những dòng tít đại loại như thế liên tục từ ngày này qua ngày khác, chỉ có trái tim bằng đất và cái đầu bằng thép mới có thể giữ được sự thản nhiên. Dân chúng Sài Gòn và dân chúng miền Nam làm sao không bị hoảng loạn. Tướng tá chạy trước, sĩ quan cấp úy chạy sau, binh lính rã ngũ… cảnh đó tất nhiên phải đến, nhất là khi từ Đà Nẵng, từ Quảng Ngãi, từ Phan Rang, từ Biên hòa… lần lượt máy bay quân sự của Mỹ đã di tản cơ giới và binh lính của họ lần lần về nước trước cuối năm 1974.

Nhiều đàn bà đẹp Việt Nam đã được đưa di tản từ 1973…
Tưởng cũng nên nhắc lại phong trào lính Mỹ, các nhân viên dân sự Mỹ, các cố vấn Mỹ ở khắp miền Nam Việt Nam từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế cho đến Cà Mau, Bạc Liêu, đâu đâu họ cũng tìm lấy vợ Việt Nam, và họ đã đưa vô số những cô gái trẻ đẹp từ nông thôn đến thành thị ồ ạt đi về Mỹ từ đầu năm 1973. Tôi đã chứng kiến thường xuyên sự kiện này trong vòng 2 năm 1973-1974. Lý do: Thiếu Tá Trịnh Bá Lộc, một sĩ quan tuỳ viên của Đại tướng Dương Văn Minh, ngoài phận sự phục vụ cho Tướng Minh, ông Lộc còn làm thêm nghề chạy lo thủ tục giấy tờ cho vợ lính Mỹ, vợ các nhân vật cao cấp của Mỹ xuất cảnh. Những cô gái này muốn theo chồng hoặc theo người yêu về Mỹ phải làm đầy đủ thủ tục giấy hôn thơ hôn thú, giấy phép xuất cảnh, giấy thông hành… thủ tục xuất ngoại ở chế độ cũ cũng khá rườm rà, cũng mất khá nhiều thời gian. Thiếu tá Trịnh Bá Lộc, lúc đó để có thêm nhiều tiền đã tự động hành nghề dịch vụ xuất nhập cảnh cho vợ Mỹ. Mỗi hồ sơ phải chạy tới chạy lui về quê chứng giấy, lên Bộ Nội Vụ khai báo, xin xuất cảnh các cô vợ Mỹ và thân nhân của những người đó không thạo đường đi nước bước phải mướn những người làm dịch vụ như Thiếu tá Lộc. Mỗi hồ sơ ông ta lấy chi phí trọn gói 1,500 USD. Dịch vụ này lúc đó cũng vô cùng ì xèo, có lúc Tướng Minh phải rầy la Thiếu Tá Lộc, nhưng ông ta vẫn làm ngơ để ông Lộc kiếm sống, vì ông Lộc là con của ông Hai Tiểng, bạn của Đại Tướng Minh từ lúc nhỏ.
Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, dân biểu Lý Quý Chung, Đại tá Trương Minh Đẩu và tôi, thời kỳ đó thấy quá nhiều đàn bà đẹp của Việt Nam làm thủ tục để lính Mỹ dẫn về xứ, chúng tôi cũng thường hay chắc lưỡi hít hà. Sự kiện Mỹ đưa đông đảo phụ nữ Việt Nam sang nước của họ vừa là một sự kiện xã hội, kinh tế, văn hoá đã xảy ra từ năm 1973, đồng thời cũng là một dấu hiệu chính trị cho thấy người Mỹ đã rộn ràng quay về cố quốc một hai năm trước ngày giải phóng. Một số lớn người Việt Nam, những người đàn bà đẹp, đã di tản theo Mỹ trước khi chiến tranh chấm dứt. Con số “di tản” này ước lượng không phải là nhỏ, chắc cũng cả vài chục ngàn người vì tại Sài Gòn lúc đó không phải chỉ riêng văn phòng Thiếu tá Lộc làm dịch vụ đưa các “em đẹp Việt Nam sang sông”.
Về việc làm của Thiếu tá Lộc, Đại tá Trương Minh Đẩu tính hay khôi hài có lúc đã nói một câu: “Thằng Lộc làm chuyện mất tư cách, nó tham gia đưa gái Việt Nam ra nước ngoài, coi không được chút nào. Ông Tướng dễ quá. Gặp “ngộ” là không có “lược”…”

Mời xem lại: 
Hồi ký Dương Văn Ba: Những Ngã Rẽ 


No comments:

Post a Comment